- No English version
“Tầm quan trọng của N2O đến vết các-bon trong việc trồng cà phê cho thấy rằng dù ở nông trại truyền thống hay nông trại hữu cơ, việc tăng hiệu quả sử dụng nitơ sẽ là cách để nông dân giảm phát thải và tiết kiệm tiền”
The Decision Tree – Là 1 khóa học miễn phí trực tuyến, đưa ra phân tích về sự ảnh hưởng của khí hậu lên ngành cà phê.
Các bạn có thể đăng ký trở thành thành viên của Barista Hustle và học thêm về vấn đề này nếu có quan tâm.
Giới thiệu sơ bộ về The Decision Tree (TDT)
Barista Hustle đã bắt đầu với khóa học miễn phí có tên gọi The Decision Tree để giúp các barista và chủ quán cà phê đưa ra quyết định sáng suốt về cách vận hành công việc giữa một thế giới luôn phải hứng chịu sự thay đổi của khí hậu. Phải thừa nhận rằng ngành công nghiệp cà phê của chúng ta có lịch sử của chủ nghĩa thực dân, sự bóc lột và hành vi quảng cáo xanh. Mục đích của khóa học này là đưa người đọc vào vị trí của người điều khiển. Với sự trợ giúp của những người tuyệt vời như Giáo Sư Stephen Abbott (Người tạo ra ứng dụng cho khóa học này, cho phép mọi người được quyền truy cập công nghệ tự chạy phân tích vòng đời sản phẩm của riêng họ), khóa học này truyền cảm hứng cho mọi người về việc giảm lượng khí thải. Từ bài học đầu tiên, bạn sẽ được khám phá cách các barista cắt giảm nghìn tỉ tấn carbon như thế nào.
Team Co-CO chọn dịch bài Dấu chân các-bon trong canh tác cà phê bởi vì nó vừa xa cũng vừa gần, và cũng thú vị.
Dấu chân các-bon trong canh tác cà phê
Giá trị cần đầu tiên để phân tích dữ liệu chính là phát thải trong khâu sản xuất. Sản xuất bao gồm các bước cần thiết để sản xuất cà phê hạt xanh đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu, bao gồm cả trồng, chế biến và xát vỏ.
Phân bón
Ở trang trại, phân bón được xem là nhân tố lớn nhất tạo ra phát thải. Theo nghiên cứu của Killian et al. ở Costa Rica, giai đoạn này chiếm khoảng 94% dấu chân các-bon trong sản xuất cà phê (B. Killian et al., 2013). Ngược lại, việc đốt nhiên liệu hóa thạch chỉ chiếm khoảng 3% tổng lượng khí thải ở trang trại, chủ yếu xảy ra trong quá trình vận chuyển trái cà phê tới máy xay.
Một số khí thải nhà kính (GHG) đến từ việc sử dụng phân bón trong sản xuất phân bón hóa học, phân bón là nguồn phát thải chính cả trong các trang trại hữu cơ. Lý do từ việc nito có trong phân bón sau khi trộn với đất không được cây trồng hấp thụ hết, sẽ được vi khuẩn trong đất tạo thành khí N2O – là 1 loại khí nhà kính mạnh.
Nông trại hữu cơ sẽ không sử dụng phân bón hóa học nhưng sử dụng phân bón hữu cơ hoặc bã vỏ cà phê làm phân bón, từ đất, chúng giải phóng lượng lớn khí N2O. Do đó, cà phê được trồng theo phương pháp hữu cơ giúp giảm lượng chất thải được sinh ra từ phân bón, nhưng sẽ không loại bỏ được hoàn toàn.
Nghiên cứu so sánh sự khác nhau giữa hệ thống canh tác hữu cơ và truyền thống tại Nicaragua và Costa Rica phát hiện rằng sự lựa chọn giữa 2 phương pháp trên sẽ ảnh hưởng đáng kể đến việc phát thải khí nhà kính (MRA Noponen et al., 2012). Tác giả tính toán được như sau, canh tác truyền thống thông thường giải phóng 0.26–0.67 kg CO2-eq trên 1 kí cà phê tươi, trong khi đó, canh tác hữu cơ chỉ giải phóng 0.12–0.52 kg. Tuy nhiên, ở cả 2 phương pháp, lượng phân bón được sử dụng có tác động lớn đến lượng khí thải. Trên thực tế, phương pháp hữu cơ siêu thâm canh tạo ra nhiều khí thải hơn so với phương pháp truyền thống thâm canh ở mức độ vừa.
Lượng lớn khí N2O còn được giải phóng khi cắt tỉa cây. Khi cây cà phê hay cây bóng mát được cắt tỉa, phần cây sau khi cắt thường sẽ được để lại tại chỗ để chúng tự phân hủy, đem lại chất dinh dưỡng trở lại đất. Khi làm như thế, khí N2O được sản sinh ra khá lớn, đủ để tạo ra 7%-42% lượng khí thải các-bon của 1 trang trại, theo Noponen et al. (2012).
Tầm quan trọng của N2O đến vết các-bon trong việc trồng cà phê cho thấy rằng dù ở nông trại truyền thống hay nông trại hữu cơ, việc tăng hiệu quả sử dụng nitơ sẽ là cách để nông dân giảm phát thải và tiết kiệm tiền. Nếu nông dân chỉ bón phân khi cây trồng cần, thì chúng sẽ được cây hấp thụ nhiều hơn, ít phân hủy trong đất và kết quả là hình thành N2O. Nhưng thật không may, kỹ thuật phân tích vòng đời tiêu chuẩn (LCA) không hướng dẫn cách tính lượng nitơ sử dụng hiệu quả, bên cạnh đó, rất ít nghiên cứu chỉ ra được cho người nông dân cần sử dụng phân bón như thế nào cho hợp lý nhất.
Ngay cả khi canh tác theo phương pháp hữu cơ cũng không thể loại bỏ được lượng khí thải trong phân bón, tuy nhiên, vẫn có thể giảm thiểu nó. Noponen và cộng sự phát hiện ra rằng 45-50% dấu chân các-bon từ việc canh tác truyền thống đến từ việc sản xuất phân bón. Trong 1 phân tích LCA khác được thực hiện ở 2 trang trại tại Tanzania cho thấy rằng sản xuất và vận chuyển hóa chất nông nghiệp tạo ra 79% lượng phát thải các-bon ở cà phê xanh và 44% ở 1 tách cà phê (PCF Pilotprojekt Deutschland, 2008). Một nghiên cứu khác ở nông trại Robusta tại Việt Nam tìm ra rằng phân bón chiếm 85% phát thải ở nông trại truyền thống, trong khi chỉ chiếm 68% đối với nông trại hữu cơ (LTK Trinh et al., 2019).
Nên sử dụng loại phân bón nào trong canh tác hữu cơ là vấn đề rất quan trọng. Phân gia cầm tạo ra lượng khí thải cao hơn nhiều so với phân compost – gần bằng với phân bón hóa học – do lượng N2O thải ra (LD Vera-Acevedo et al., 2016). Khi phân compost được sử dụng làm phân hữu cơ, phần lớn lượng khí thải đến từ quá trình sản xuất chứ không phải đến từ việc sử dụng nó. Trong trường hợp này, hệ thống trộn phân cải tiến như máy khử mùi sinh học biodigesters có khả năng giảm tổng lượng khí thải trong sản xuất lên tới 38%, 1 nghiên cứu trang trại hữu cơ tại Nicaragua cho biết.
Năng suất và sử dụng phân bón
Những nghiên cứu này cho thấy rằng việc chuyển sang hệ thống hữu cơ hoặc thâm canh mức độ vừa đủ có thể giảm phát thải trong trồng trọt cà phê. Tuy nhiên, Noponen và cộng sự (2012) cảnh báo rằng vì hệ thống hữu cơ có năng suất kém hơn, nên đổi qua phương thức này có thể dẫn đến kết quả sẽ cần nhiều đất hơn để canh tác cà phê. Nếu đất được tận dụng để trồng cà phê trước đây là rừng hoặc đồng cỏ, thì mục đích sử dụng đất thay đổi sẽ gây thêm phát thải, lượng phát thải mà chưa được đem vào tính toán trước đó. Cần lưu ý rằng canh tác ít thâm canh không phải lúc nào cũng có nghĩa là sử dụng nguồn tài nguyên kém hiệu quả hơn. Một nghiên cứu trên 116 nông trại ở Mexico, Guatemala, Nicaragua, El Salvador, và Colombia chỉ ra rằng phát thải do phân bón ở những nông trại có năng suất thấp rất khác nhau, qua đó cho thấy việc sử dụng phân bón hiệu quả hơn ở những nông trại này có thể tăng năng suất và giảm dấu chân các-bon trên mỗi kí cà phê (H van Rikxoort et al., 2014). Tác giả còn viết “Những dữ liệu cho thấy phân bón thường bị lãng phí ở các trang trại mẫu vì chúng được dùng cho các hệ thống có năng suất hạn chế bởi tác nhân khác như ánh sáng, nước, tuổi và trạng thái của cây cà phê”
Trong 1 nghiên cứu về các nông hộ nhỏ ở Kenya (JJ Maina et al., 2015), nông trại có năng suất thấp nhất tạo ra lượng phát thải cao nhất trên 1 kí cà phê, mặc dù họ sử dụng ít phân bón hơn. Theo nghiên cứu này, ở các trang trại có năng suất thấp nhất, mức phát thải trung bình dao động từ 3.24kg CO2-eq trên mỗi kg cà phê xanh, và xuống khoảng 0.3 CO2-eq ở các trang trại có năng suất cao nhất. Trên thực tế, 1 vài nông trại năng suất cao hiệu quả trong sản xuất nhiên liệu sinh khối đến mức cô lập được các-bon.
Nguồn: https://www.baristahustle.com/blog/course-the-decision-tree-2/
Comments